Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
556 lượt xem

Các câu thơ tả cảnh trong truyện kiều

Bạn đang quan tâm đến Các câu thơ tả cảnh trong truyện kiều phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Các câu thơ tả cảnh trong truyện kiều

nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nhà thơ nguyễn du trong truyện kiều

Nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong truyện kiều. Phong cách viết của đại thi hào Nguyễn Du được đánh giá là một ngòi bút điêu luyện và xuất sắc, trong đó nghệ thuật tả cảnh được ghi nhận. được người đời sau ca tụng “như máu chảy đầu bút” và “soi bóng ngàn đời”. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà phê bình Trần Ngọc về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều.

Truyện tân thanh ô kiều của thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác văn học trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết học, đạo đức, tâm lý và văn học.

Truyện Kiều vì thế đã trở thành tập thơ phổ biến nhất ở nước ta: từ sĩ phu đến quý tộc, các nhà khoa bảng, nhà văn, nhà thơ cho đến những người bình thường ít học ai cũng biết. những câu chuyện và thậm chí cả bói toán.

giá trị xuất sắc của truyện kiều là một tuyên ngôn trong đó giá trị văn học có vị thế rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin bàn về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du trong “Đoạn trường tân thanh ở truyện kiều”.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình nói chung rất đa dạng, tài tình và phong phú. chính nghệ thuật dựng cảnh này đã nâng tầm chất thơ và giá trị của truyện Kiều lên rất nhiều.

mô tả về cảnh tình yêu.

đây là cách tả cảnh có nhân vật chủ quan, có trong toàn bộ lịch sử của kiều. các cảnh luôn bao gồm cảm giác của nhân vật chính hoặc các nhân vật phụ ẩn trong đối tượng. điều này làm cho cảnh động như thể nó có linh hồn hoặc cảm xúc cá nhân. Nguyên du tự thú nhận sự chủ quan của mình bằng cách tả cảnh qua hai câu thơ:

“một cảnh không mang nỗi buồn, người ta buồn, một cảnh không bao giờ vui”

Theo nghĩa này, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du khác hẳn với các nhà thơ khác, kể cả các nhà thơ phương Tây, là những người rất điêu luyện trong việc tả cảnh ngụ tình. trong khi các nhà thơ này chỉ đi theo một hướng, đó là chỉ viết được những cảnh phù hợp với tâm trạng con người, còn ï nguyễn du đã đưa cảnh vào hồn người, đồng thời cũng đưa được hồn vào cảnh, tạo nên sự tuyệt vời. sự hài hòa hai chiều giữa cảnh và người, giữa vô tri và tâm để tuy hai mà một, tuy một mà hai ..

Chẳng hạn, khi các chị em ở nước ngoài trở về sau lễ thanh minh, đến cây cầu bắc qua con sông nhỏ gần lăng mộ đập tiên, cả người và cảnh buổi chiều đều cảm thấy khó xử:

“tuy nhiên, nước uốn quanh nhịp nhỏ của cây cầu ở cuối ghềnh”

“Wow” đề cập đến cảm xúc của con người, nhưng nó cũng đề cập đến sự ngập ngừng lang thang của dòng nước chảy dưới cây cầu.

hình ảnh mảnh trăng khuyết nhìn kim trong lúc nửa tỉnh nửa mê, thấp thoáng hình ảnh lạ sau lần gặp đầu tiên:

‘bóng trăng và tấm rèm che khuất ngồi bên con hải cẩu một mình’

Anh lười biếng đọc sách và đèn, rời khỏi phòng đọc sách lạnh lẽo với cơn gió hiu quạnh thổi qua rèm cửa: phòng làm việc giống như trúc, ngọn trúc rơi rụng, rèm cửa bay phấp phới, đàn hương. gió thổi, mùi trà lạc giọng khô khốc.

rồi những giờ thề với ba sinh đã qua, khi phải chia tay tạm bợ, non sông bỗng thành người khắt khe chia tay tình yêu:

sông cạn quá, một bên nhìn một đầu, bên kia chờ một bên

khác tả cảnh, tình người ẩn sâu trong cảnh. Đó là khung cảnh trang nghiêm sau đám tang của cha, trở về tìm Việt kiều ở vườn bách thú mà người ta chưa từng thấy, chỉ là vườn cỏ hoang lạnh lẽo dưới ánh trăng.

khu vườn đầy cỏ và cỏ, nhưng trăng cô đơn và mưa rơi

lần thứ hai, kim trong trở lại vương gia để hỏi thăm người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng khung cảnh ở quê nhà bây giờ rất nghèo nàn, sân đầy cỏ hoang, ướt vì mưa, thật trống trải. nỗi buồn trong lòng anh. :

một cánh đồng cỏ và cỏ ướt đẫm nước mưa, càng xỉn màu càng khó hiểu

khi ở trên tầng cao nhất, anh nhìn ra cửa sổ và nhìn thấy biển lúc hoàng hôn, với những ngọn nến phía xa, anh nghĩ về thân phận vô hướng của mình:

buồn nhìn cửa biển chiều ai ngọn nến xa xa, buồn thấy nước mới, hoa trôi, biết về đâu?

khi trở về lam tri, lòng anh không hẳn vui mà buồn như lau sậy bên đường:

<3

và khi theo vào căn hộ để trốn dì, cảnh một đêm thu trăng sáng nhưng cũng lạnh lẽo không khác gì cảm xúc bối rối của kiều:

<3

Khi chán nản, tôi muốn nhảy xuống sông tang tóc để giải thoát nợ nần, tình cảm của tôi ở nước ngoài như vầng trăng tàn, trên đời không còn chút lưu luyến nào:

mảnh trăng đã gác núi lẻ loi chưa ngồi xong

kế thừa. Ngoài cách tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du còn tô điểm cho Truyện Kiều nhiều hình ảnh tả chân, tả thực mang tính chân thực cao, những bức tranh thuần túy đẹp đẽ, không ngụ ngôn. những bức tranh thơ có lúc tươi, có lúc buồn, được viết bằng một phong cách cầu kỳ. chỉ là một vài bản phác thảo với những điểm chính hiện có.

Đây là cảnh một túp lều tranh bên dòng sông vắng lúc chiều tà, đơn sơ, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:

Đang vất vưởng trên nóc đường, một gian hàng mây vàng chia đôi.

hay chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc có thể hình dung ra một mái tranh nghèo rách nát hàng tháng trời:

những túp lều lợp tranh, những bức tường lởm chởm đất lởm chởm và những tấm rèm treo lởm chởm

hoặc một bức tranh màu nước về bầu trời buổi tối rực rỡ phản chiếu trên mặt sông phẳng lặng:

chiếu xuống đáy nước trên bầu trời và tích tụ một làn khói xanh non với ánh vàng

<3

dưới chân cầu, dòng nước trong veo bên thành cầu, rặng liễu rủ bóng duyên

khi chị em ở nước ngoài đến thăm mộ chị Đàm Tiên, khung cảnh cũng ảm đạm và ảm đạm: một cơn gió u sầu làm lay động mấy đám lau sậy trên đám cỏ rũ rượi trong sương tối:

một khu vực cỏ râm mát với làn gió nhẹ thổi qua lau sậy.

khung cảnh thanh tịnh của chùa gianh, nơi lưu lạc Việt kiều, nhưng con đường uốn lượn ven sông, có rừng sậy tách biệt với cuộc sống nhộn nhịp bên ngoài:

XEM THÊM:  Cảm nhận đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) - Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng

quanh co theo con đường từ rừng sậy đến vườn phật thủ

Nghệ thuật trình diễn của Nguyễn Du hay đến nỗi được thầy giáo nghiêm khắc nhận xét: “Trong đoạn trường tân thanh, luôn có những bức tranh nhỏ như những viên kim cương rải rác trên tấm nhung thêu hình thoi” (Tổng luận văn học sử Việt Nam)

hãy cùng ngắm nhìn cảnh bóng trăng soi bóng xuống mặt nước, đẹp và lãng mạn như kỷ niệm muôn đời về kim khí quý của kiều nữ sau lần gặp gỡ đầu tiên. chỉ cần một vài nét vẽ đơn giản giữa trăng, nước và khu vườn cũng đủ để diễn tả một cảnh đẹp như tranh vẽ:

gương soi ngang dòng sông vàng óng ả nước, cây lồng bóng ngoài hiên

Mô tả tượng trưng về hiện trường:

nguyễn du cũng thường thể hiện tính tượng trưng của cảnh, tức là chỉ sử dụng một vài nét vẽ, trong một nghệ thuật đã đạt đến mức độ uyển chuyển và tinh tế.

nghe hai câu thơ:

một chút gần gũi của mùa thu, nên chỉ có ai đó lạnh nhạt

Đó là cảnh một khu rừng viola vào mùa thu xám xịt với một cơn gió lạnh nhẹ. Trong cách tả cảnh này, có lẽ Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm thụ của mình mà không nghĩ rằng mình đang sáng tạo ra một cách vẽ tượng trưng cho bức tranh tả cảnh bằng bài thơ. Mãi đến hơn một thế kỷ sau, vào thế kỷ 19, cảnh tượng hình mới phát triển nhanh chóng ở Pháp đến mức các nhà phân tích văn học gọi nó là “tượng trưng”. đó là nhận định của giáo viên.

Cần lưu ý rằng nghệ thuật của nguyễn du là đem cái gì rộng lớn, bao la rồi gói vào cái nhỏ (Giáo sư hà nhu chi bình luận về thơ và văn Việt Nam). trong hai câu thơ trên, “cả một trời thu” mang một khái niệm không gian bao la, rộng lớn, còn bốn chữ “một chỉ” chỉ một diện tích nhỏ, một nỗi niềm riêng lẻ.

một số câu khác cũng có khuynh hướng tương tự như:

yêu cái bóng của quyền riêng tư của riêng bạn

là cảnh nắng chiều chùng chình uốn mình trước hiên nhà, rồi quay về ẩn mình trong những suy nghĩ riêng tư của một trái tim cô đơn. (Cần chú ý thêm cách sử dụng ẩn ý của nguyen du rất khéo léo, với các từ “in nghiêng” và “riêng tư” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhưng cảm giác vẫn rất hay.)

đôi khi nguyễn du sử dụng một cách miêu tả cảnh vật đối lập, nghĩa là ông làm cho trái tim nhỏ bé của con người trải rộng ra và hòa cùng với sự bao la của đất trời.

hãy cùng xem cảnh anh Kiều và chú anh chia tay:

người thì cưỡi ngựa, người chia nhau đi trong rừng phong mùa thu nhuộm màu quan san.

Đó là một cuộc chia tay buồn, dù chỉ giữa hai người họ, nhưng nó đã làm tối tăm toàn bộ khung cảnh xung quanh.

hay cảnh ở nước ngoài thất vọng về cuộc sống, mở toang cửa phòng nhỏ thả mình xuống dòng sông tiên cảnh mênh mông:

cửa nhanh chóng mở màn. trời cao sông rộng.

Nói về nghệ thuật dựng cảnh tượng trưng này, GS Dương Quảng Hàm viết: “Dựng cảnh theo kiểu ký họa, nhưng linh hoạt từng cảnh.”

mô tả cảnh sử dụng màu sắc.

Thơ Nguyễn Du tả cảnh cũng sử dụng nhiều màu sắc như một nét vẽ của người họa sĩ. ánh sáng đầu tiên phải là yếu tố cơ bản, sau đó là các màu có sự kết hợp để làm nổi bật các cảnh chính và phụ.

Hãy cùng ngắm nhìn một cảnh xuân tươi tắn trên vùng quê qua ngòi bút đầy màu sắc của nguyễn du:

cỏ xanh đến tận chân trời, cành lê trắng với một số bông hoa

Đó là một hình ảnh hoàn hảo và có màu sắc trang nhã: trên thảm cỏ xanh bao la, có những bông hoa lê trắng tinh khôi. Chỉ có hai màu xanh và trắng như sự thuần khiết trong tâm hồn của những người phụ nữ ngoại quốc tham gia lễ tẩy rửa. Ở đây cũng vậy, hãy chú ý đến phép đảo ngữ tài tình của Nguyễn Du. thay vì “cành lê trắng có mấy bông”, nguyễn du viết: “cành lê trắng có mấy bông”. Tất nhiên, có thể Nguyễn Du phải đảo ngữ chỉ vì ông tôn trọng luật “bằng” trong thơ Lục bát, nhưng đó cũng là một phép đảo ngữ thông minh mà không phải ai cũng làm được.

cũng là một cảnh cỏ xanh khác, nhưng lần này là màu xanh đậm được phản chiếu trong màu nước trong:

một khu vực cỏ xanh mướt với làn nước trong vắt.

hoặc cảnh mặt nước lung linh phản chiếu những đám mây vàng khi hoàng hôn:

soi bóng xuống đáy nước trên bầu trời và tạo thành làn khói xanh non phơi ra dưới ánh sáng vàng.

một khung cảnh khác mà màu sắc u buồn, ảm đạm, chỉ có màu nâu của mặt đất, màu xanh vàng của cỏ héo úa bên cạnh gò đất thấp của gò mộ đập Tiên:

Tôi sẽ giữ bụi bên đường và khóc cỏ nửa vàng, nửa xanh

Nhìn chung, nguyễn du rất chú ý đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là cảnh hoàng hôn, cây cối, trăng nước, là những màu sắc thơ mộng, nhưng lại gợi cảm giác buồn xa xăm, chỉ vì những câu chuyện của kiều họ buồn hơn. vui vẻ trong tự nhiên.

Giáo sư Hà Như Chi đã nhận xét về cách sử dụng màu sắc của Nguyễn Du như sau: “Nguyễn Du khi miêu tả ánh sáng không chỉ miêu tả trực tiếp ánh sáng mà còn miêu tả gián tiếp, cho ta thấy những phản chiếu trong cỏ, lá, mặt nước, ngọn núi .. “(vietnamthivan giảng)

Đúng vậy, hãy nhìn khu vườn có hoa lựu nở đỏ rực như ánh lửa bập bùng mùa hạ, mùa nắng đã được chào đón bằng tiếng hót của hoa đỗ quyên đầu một đêm trăng:

dưới ánh trăng xanh gọi mùa hè, ngọn lửa thạch lựu bập bùng

Cách sử dụng từ ngữ tao nhã và phổ biến trong phần mô tả hiện trường.

Nguyễn Du là một nhà thơ xuất thân từ dòng dõi quan lại giàu có, quyền quý, nhưng gặp cảnh loạn lạc, tranh đoạt ngôi vị giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, ông phải về quê cũ ở huyện Tiên Điền để sinh sống. ông lão đã trải qua những ngày tháng giàu sang và những ngày sống thanh đạm nơi đất khách quê người, để rồi trong tâm hồn ông có được hai điều kiện sống. ông đã kết hợp hài hòa hai cảnh đời đó nên trong văn học tả cảnh trong truyện cổ tích có lúc ông dùng những từ ngữ rất tao nhã, cao quý, có khi ông dùng những từ ngữ giản dị, bình dân.

Những từ ngữ được sử dụng với sự sang trọng và quý phái đã được nói nhiều lần trong các câu trước, không cần thiết phải lặp lại chúng. Bây giờ chúng ta hãy xem xét những từ rất phổ biến mà Nguyễn Du sử dụng khi tả cảnh. ví như kiều nữ hồi xuân, trời vừa chuyển sang hoàng hôn, nguyễn du dùng hai chữ “ta ta” để chỉ hành động chậm rãi, có thể là kiều nữ đi thong thả, nhưng cũng có thể biểu thị. ánh nắng chiều buông xuống chậm rãi:

XEM THÊM:  Mở bài Trao duyên ấn tượng nhất (51 mẫu)

Bóng Tai Ta nghiêng về hướng Tây, hai chị em lững thững rời đi.

thì tôi bắt gặp cảnh lăng mộ của bà đập tiên được xây dựng nhanh chóng, chỉ là một đám đất trũng “sưng vù” bên vệ đường, xen lẫn với một ít cỏ khô:

Tôi sẽ nắm tay bên lề đường. cỏ nửa vàng nửa xanh.

sau đó, cơn gió gọi là linh hồn “bùng nổ” thổi như thể nó muốn nói điều gì đó:

bằng cách nuốt và lắc cây, dường như có ít nhiều trầm hương bên trong.

hay cảnh trong vườn bách thú khi kim trong quay lại tìm nàng nhưng không thấy nàng đâu, chỉ thấy cánh én chao liệng trên bãi đất hoang đầy rêu:

khổ đất rêu phong.

và ban đêm, ánh trăng chiếu vào “hiu quạnh” trong khu vườn vắng vẻ, âm thanh chỉ là cỏ dại lác đác:

khu vườn đầy cỏ và cỏ, nhưng trăng cô đơn và mưa rơi

Chính vì Nguyễn Du đã khéo léo pha trộn giữa phong cách văn học hàn lâm và bình dân mà Truyện Kiều đã được các tầng lớp nhân dân trong xã hội đón nhận và thưởng thức một cách nhiệt tình. những nhân vật bình dân, giản dị đã là một bước tiến của văn học Việt Nam trên con đường dần thoát khỏi ảnh hưởng của chữ Hán và chữ Hán mà ï nguyễn du đã đi tiên phong.

6. sử dụng cổ điển trong mô tả cảnh.

nguyen du là một nhà thơ sử dụng nhiều điển cố trong tác phẩm của mình. nhưng không giống như các nhà thơ khác họ thường sử dụng kinh điển đơn giản vì họ chưa tìm được sự thay thế thích hợp cho chữ quốc ngữ. nguyễn du thì khác, ông sử dụng điển cố để “làm cho bài thơ thêm ý nghĩa nhưng đượm chất tự nhiên, không cầu kỳ”, như giáo sư ha như chi đã nhận xét. (Bài văn tế Việt Nam) Nhưng phải nói rằng, những truyện Nguyễn Du sử dụng chủ yếu làm phong phú thêm nền văn học quốc ngữ Việt Nam, thậm chí nhiều truyện đã được chuyển hẳn sang tiếng Việt, nghĩa là ai cũng hiểu được ý nghĩa khái quát của chúng. như các từ ngữ biển dâu, gót sen, sư tử hà đông, cỏ mép, mây mưa, tam sinh, cánh và cành ..v… v.

Các tác phẩm kinh điển thường được tìm thấy trong các bài thơ tả người, tả tình, tả tâm trạng, miêu tả âm nhạc và trải dài lịch sử của xứ kiều.

Đặc biệt trong lĩnh vực tả cảnh, là chủ đề của bài viết này, chúng tôi không tìm thấy nhiều ví dụ. nhưng hãy trích dẫn một số ví dụ.

ví dụ như đoạn văn tả cảnh cây kiều nhớ vàng vì làn nước trong xanh phản chiếu ánh trăng:

“Gương Nga nghiêng soi dòng sông vàng ươm những hàng cây trong sân”

“gương nga” dùng để chỉ mặt trăng, vì thần tiên, sắc đẹp, vợ của hậu nghệ, đã lấy trộm và uống hết thuốc trường sinh mà hậu nghệ xin từ mẹ của vị vua phương Tây. ông đã trở thành một nàng tiên và bay lên mặt trăng. từ đó, người ta thường gọi mặt trăng là “gương soi” hay “nàng” hay “vầng trăng”.

hai câu thơ khác:

<3

sông qin lấy từ câu “tần dao, dũng bất phá” nghĩa là từ xa nhìn vào nước sông qin như xé gan xé ruột. duong quan là tên một cửa ngõ ở phía tây nam tỉnh cam tuc. cả hai ví dụ trên đều mang ý nghĩa của nỗi nhớ nhung khi xa nhau. Sau đó chính là lúc Thủy Kiều cử chú của mình đến thăm vợ cũ là thái giám.

có:

đối diện lầu trước có điểm xuân cùng nghỉ xuân, nguyệt san sát nhau

chữ khóa xuân lấy từ điển châu du bị gió đông chặn đốt hạ trại xích, đại đồng môn không cháy, nhưng cũng vì thế mà chặn xuân của hai chị em tên đại. kieu và tieu. kiều, một người vợ kính trọng và một người vợ tạm biệt ..

Đồng phong không xấu chút nào, nhưng đồng phong đang ở giữa mùa xuân.

<3

ở một nơi khác khi con yêu tinh trở về vườn bách thú để tìm nàng nhưng nàng đã đi mất, chỉ còn lại một ngàn cánh hoa đào hồng nở nụ cười tạm biệt gió đông:

<3

Hai câu này được trích từ điển tích của người tửu sắc sống ở triều đại tang gia, anh trở lại đạo hoa trang thăm bà cụ đã cho uống nước khi tham gia lễ hội dap thanh. nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh xưa vẫn còn đó, chìm trong ngàn cánh hoa đào rung rinh trong nắng xuân. dừng viết hai câu từng chữ:

một gương mặt vô danh trong quá khứ, dao hoa và tiểu đồng phong

kết luận.

Tóm lại, nghệ thuật dựng cảnh của Nguyễn Du thật là đa nghĩa. nghệ thuật ấy không khác gì nghệ thuật vẽ tranh sơn thủy, có khi chỉ là một mảng trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một đám mây lúc chiều tà ..v.v.v. chỉ có vậy thôi, nhưng từ ngữ dùng màu sắc và cách sắp xếp cảnh xa gần đủ nghệ thuật để hút hồn người đọc, như hòa vào cảnh vật. Không thể phủ nhận rằng Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên, nên ông đã cho cảnh thiên nhiên một cái “hồn” khiến ai đọc thơ, văn tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi… giá trị văn chương. chương văn tả cảnh đã đạt đến độ tinh xảo, chỉ một trường đoạn tả cảnh thôi cũng đủ để Lịch sử Việt kiều xứng danh là tác phẩm văn học chữ quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học nước nhà. ta.

nghe học giả dao duy anh bình luận về truyện kiều: “sở dĩ chúng ta yêu thích truyện kiều không phải vì nó có thể là một cuốn sách đạo đức để đời, mà chỉ đơn giản vì trong cuốn sách đó, cụ Nguyễn Du đã dùng những ngôn từ văn học tuyệt vời để lay động chúng ta.” linh hồn… ”(chuyên luận về kim văn kiều) .. thật ra những rung động trong tâm hồn được đánh thức khi đọc truyện của kiều hẳn là điều mà không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được vì chúng ta đã từng có những cảm xúc như thế này mãi mãi trong thời gian và không gian, từ thế hệ này sang thế hệ khác, luôn được mọi người tôn trọng và yêu mến.

Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Các câu thơ tả cảnh trong truyện kiều. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *