Mẹo nhỏ: Để tìm kiếm chính xác các tác phẩm của Phebinhvanhoc.com.vn, hãy search trên Google với cú pháp: "Từ khóa" + "phebinhvanhoc". (Ví dụ: tác phẩm chí phèo phebinhvanhoc). Tìm kiếm ngay
625 lượt xem

Thuyết minh về truyện Kiều của Nguyễn Du [Văn lớp 9 và 10] (11 mẫu bài làm chi tiết) – Cẩm Nang Bếp Blog

Bạn đang quan tâm đến Thuyết minh về truyện Kiều của Nguyễn Du [Văn lớp 9 và 10] (11 mẫu bài làm chi tiết) – Cẩm Nang Bếp Blog phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé!

Video đầy đủ Thuyết minh về truyện Kiều của Nguyễn Du [Văn lớp 9 và 10] (11 mẫu bài làm chi tiết) – Cẩm Nang Bếp Blog

tường thuật về lịch sử Trạng nguyên để thấy rằng tác phẩm là một kiệt tác của dân tộc ta ở mọi thời đại, đồng thời là kết tinh của những giá trị to lớn. Ngoài ra, phần bình giảng Truyện Kiều còn giúp chúng ta cảm nhận được tài năng và tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du. bài viết dưới đây của camnangbep.com sẽ giúp các bạn tóm tắt lý giải về lịch sử xứ kiều, cùng tìm hiểu nhé với nhau bởi ưu ái!.

camnangbep.com cũng giúp thực hiện những việc sau:

Giới thiệu: Mặc dù đã gần hai thế kỷ trôi qua kể từ khi được sáng tác, nhưng “Lịch sử kiều bào” của Nguyễn Du vẫn là một tác phẩm có ý nghĩa, đặc biệt là đối với đời sống tinh thần của làng quê Việt Nam. . Đây không chỉ là kiệt tác được xếp vào hàng kinh điển của nền văn học nước nhà mà còn là tác phẩm được đón nhận rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.

tường thuật về tác giả nguyễn du

Nguyên du (1765 – 1820), tên chữ là tiểu học, biệt hiệu là thanh hiền. Ông là một người con của làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, thành phố Hà Tĩnh. Gia đình Nguyễn Du là một gia đình giàu truyền thống Nho học, nhiều đời làm quan. cha ông nguyên là Trạng nguyên, học thức uyên thâm, đỗ Tiến sĩ, giữ chức Tể tướng triều đình. Nguyễn Du có người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản, cũng làm quan dưới triều Lê – Trịnh.

Có nhiều yếu tố đã tạo nên cái duyên của Nguyễn Du với văn chương. trước hết, gia đình ông là một gia đình có truyền thống văn học, sành thơ tuồng và đặc biệt thích hát xẩm nên rất có điều kiện tiếp xúc, học hỏi các loại hình nghệ thuật có giá trị. , có tình cảm đặc biệt với thơ.

Không chỉ vậy, chính mảnh đất mà Nguyễn Du đã đi qua trong cuộc đời cũng giúp ông có những trải nghiệm vô cùng ý nghĩa để có thể hoàn thành tốt công việc sáng tác của mình. đó là quê hương thành phố hà tĩnh tuy nghèo nhưng là đất hiền tài, quê hương vùng kinh bắc, là nơi sinh ra dân ca quan họ, tỉnh thái bình, quê hương phu thê. truyền thống văn hiến và mảnh đất cội nguồn ngàn năm văn hiến – nơi bà sinh ra. Chính trách nhiệm đối với văn hóa truyền thống ở nhiều vùng quê khác nhau đã giúp Nguyễn Du hiểu hơn về cuộc sống và học hỏi những giá trị tốt đẹp của sự tổng hòa nghệ thuật và mỹ học, đặc biệt là mỹ học và nghệ thuật dân gian. Giai đoạn cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 mà Nguyễn Du sống là thời kỳ có nhiều biến động của lịch sử vẻ vang, điều này cũng tác động không nhỏ đến sự nghiệp của Nguyễn Du. Trong quá trình này, đất nước ta bị khủng hoảng từng phần trầm trọng và sự suy yếu của nền chính trị phong kiến, cùng với sự nổi lên của phong trào nông dân mà điển hình nổi bật là cuộc khởi nghĩa Tây tiến. tình hình quốc gia với sự thay đổi quyền sở hữu thường khiến người ta sợ hãi rất nhiều. Cũng như họ, Nguyễn Du cũng có nhiều trăn trở, suy tư về thời cuộc và ông đã mượn thơ để bộc lộ tất cả.

Chính những yếu tố trên đã tạo nên cơ sở sáng tác của Nguyễn Du và giúp ông đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp văn học của mình. Trong cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều bài thơ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. về thơ chữ Hán, nguyễn du có ba tập: “thanh xuân tiền hậu” , “nam trung tạp ngâm” , “bắc hanh tạp lục” . Về thơ du mục, có thể kể đến những kiệt tác của tác giả như: “sử kiều” , “văn mười loại chúng sinh” , “ nếp sống văn hóa của hai cô gái bền lâu ”, “ tình trẻ với nón lá ”.

Thơ văn Nguyễn Du thường tập trung chuyên sâu phản ánh những yếu tố hiện thực trong cuộc sống mà ông có dịp tận mắt chứng kiến và chiêm nghiệm. Đặc biệt, những tác phẩm của ông cũng chính là phương tiện đi lại để ông lên tiếng tố cáo những mặt trái của xã hội phong kiến đầy bất công. Bên cạnh đó, ông cũng rất chân thành bày tỏ sự đồng cảm, ngợi ca và hướng ngòi bút can đảm và mạnh mẽ vào việc đòi lại quyền sống cho con người và đặc biệt quan trọng là người phụ nữ . tìm hiểu và thuyết minh về truyện kiều

tường thuật về lịch sử xứ kiều của nguyễn du

Hoàn cảnh sáng tác truyện kiều, tóm tắt truyện cùng giá trị tư tưởng của tác phẩm là những ý chính mà chúng ta phải khám phá khi thuyết minh truyện kiều của nguyễn du.

thành phần của những câu chuyện về kiều

vở kịch “sử kiều” ban đầu có tên gốc là “tân thanh trường” (tạm dịch là “tiếng khóc mới vỡ” >). Đây là tác phẩm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thuộc thể loại truyện du mục và có dung lượng gồm 3254 câu thơ lục bát. trong việc viết “truyện ký” , Nguyễn Du đã vẽ dựa trên cốt truyện của “kim văn kiều truyện” của một nhà văn tài ba của Trung Quốc. Tuy vay mượn cốt truyện nhưng nguyen du đã có những sáng tạo rất mới cả về nội dung và nghệ thuật để tác phẩm này trở nên đáng giá.

tóm tắt tình tiết của câu chuyện với các nhân vật

vở kịch nói về cuộc đời của nhân vật Thủy Kiều và nội dung của toàn bộ vở kịch có thể được tóm tắt trong ba phần chính.

Phần đầu tiên nêu bật câu chuyện về cuộc gặp gỡ và cam kết của nhân vật. Thuý Kiều cùng với hai người em là Thuý Vân và Vương Quán xuất thân trong một hoàng tộc trung lưu. họ có một cuộc sống rất lặng lẽ trên sân khấu “im lặng và có rèm che” .

Nhờ có thanh minh, thủy kiều đi du xuân cùng chị gái và có cơ hội gặp gỡ kim trong rất trang nhã, lịch thiệp và trang nhã. tình cảm lẫn nhau nảy sinh giữa họ và họ đã thề sẽ ở bên nhau. cũng trong chuyến du xuân này, thủy kiều đã gặp lại ngôi mộ của cô gái điếm già và cảm nhận được điều gì đó đối với cô gái đó và cũng là người bày tỏ những suy nghĩ của mình về cuộc sống của chính mình.

sau phần dấn thân và rong ruổi, “chuyện của kiều” tiếp tục với những dòng thơ nói về những biến cố và quá trình lưu lạc lâu dài của thủy kiều. Trong thời khắc quan trọng về quê dự đám tang chú ruột, gia đình kiều bào bất ngờ gặp sóng gió. cha ở nước ngoài bị bắt vì vu oan cho người bán lụa. Kiều quyết định bán mình cứu cha, nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng.

quyết định bán mình cũng là lúc cuộc sống ở nước ngoài bị đẩy vào chuỗi ngày bi đát trong và ngoài nhà kính bởi bàn tay của những người hàng thịt, vốn là học trò của bạn ba, ma và sở khanh. Sau đó, Kiều được một người khách làng chơi là chú ruột cứu thoát khỏi lầu xanh nhưng nàng đã bị hoạn quan bắt được: vợ của người chú ghen tuông và chúng hành hạ nàng rất dã man. kiều nữ thoát nạn nhưng số phận lại đặt nàng vào tay người bác ruột, người cùng hội cùng thuyền với nàng, nàng tiếp tục sống những tháng ngày tủi nhục chốn lầu xanh. chính tại nơi đây, nàng được anh hùng biển cả chuộc về làm vợ và cũng là người giúp trả ơn, báo thù. Những tưởng, cuộc sống ở nước ngoài, trải qua nhiều sóng gió, tìm được chút bình yên, nhưng không ngờ, Hải của bạn bị giết do một âm mưu cúng bái. sau khi đi biển trở về, Việt kiều bị ép gả cho quan họ, hầu đàn, hầu rượu, gả cho quan đất. Vì vậy, Kiều quyết định gieo mình xuống sông Tiền Đường để tìm sự giải thoát. Lần này thoát khỏi cảnh tự tử, được sư tôn cứu giúp, Kiều quyết định hành động tìm đến Phật môn làm nơi nương tựa. Sau nhiều đau khổ, Kiêu cũng tìm lại được bình yên cho mình và điều này được hé lộ ở cuối truyện. Phần này nói về quyết tâm tìm một ngôi nhà mới của Kim sau khoảng thời gian đau buồn. Dù đồng ý lấy Vân theo ý Kiều nhưng Trọng vẫn không thể nào quên được hình bóng của Kiều và những kỷ niệm hoa mộng của mối tình đầu nồng nàn.

may mắn đã cho anh cơ hội gặp lại kiều nhờ một lần tình cờ gặp gỡ với vị hòa thượng đắc đạo. những người nước ngoài được đoàn tụ với gia đình của họ. tuy nhiên, trước sự mong mỏi của mọi người về mối lương duyên với kim trong, cô đã quyết định “đem tình yêu của mình cho đế vương” đến với anh.

tìm hiểu và lý giải về truyện Kiều qua các giá trị tư tưởng và sức sống

Giá trị tư tưởng của truyện kiều trong việc giải thích truyện kiều

viết “sử kiều” , nguyễn du khẳng định và đánh giá rất cao phụ nữ bởi rất nhiều nét đẹp hội tụ ở họ. Điều đó đã được thể hiện qua việc Nguyên Du vào vai một nhân vật nữ có nhiều nét đẹp đáng nể, đặc biệt là nhân vật Thủy Kiều.

Thông qua lối viết hiện thực và ước lệ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp hình thể của nàng ( “trong sáng như ngọc ngà” – “công trình thiên nhiên dày công đúc” ), ngoại hình của nàng là đồng hóa với nàng (“xuân sơn thu mỹ” – “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”) . tác giả không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của nàng mà còn bày tỏ sự trân trọng về tài năng và phẩm chất đáng quý của nàng. Cô ấy không chỉ có vẻ đẹp tự nhiên của đất nước mà còn có tài chơi game, làm bài kiểm tra, bài kiểm tra bốc thăm.

Khi miêu tả sự khéo léo của người phụ nữ, nguyễn du đã thể hiện sự lịch sự của mình bằng cách tôn vinh sự khéo léo của phụ nữ trong khi quan niệm xưa thường coi trọng điều này ở nam giới. Kiều cũng là một người con rất hiếu thảo khi biết gật đầu hy sinh vì sự bình yên của mái ấm gia đình nên bị người buôn lụa vu oan. với nhà, với gia đình là đạo hiếu, với người yêu thì nhân hậu.

Quyết định bán mình, Kiều đã đồng ý đánh đổi hạnh phúc của chính mình. tuy nhiên cô ấy rất quan tâm đến kim trong, vì vậy cô ấy đã yêu cầu tôi đi thuy van để trả cho kim trong. có như vậy thì “dù thịt nát xương mòn” , bạn vẫn hài lòng rằng “mùi chín suối vẫn lây” . Trong suốt cuộc đời, Kiều luôn bộc lộ rằng mình có ý thức rất rõ ràng về bản thân.

Cô nhạy cảm với số phận của người ca sĩ già chết tiệt và khóc thương anh ta cũng là một điềm báo cho chính cô. ý thức về bản thân ấy còn được thể hiện trong đêm ân ái với nhân phẩm vì muốn bảo vệ tình yêu trong sáng, thuần khiết nhưng không để bản thân đi quá giới hạn cho phép. Thể hiện những giá trị tốt đẹp đó ở nhân vật của mình, Nguyễn Du đã phần nào thể hiện được tinh thần nhân đạo sâu sắc của mình so với những con người mang vẻ đẹp đáng quý như Thúy Kiều.

Trong “truyện kieu” , tác giả cũng nêu bật ở các nhân vật của mình khát vọng giải tỏa cảm xúc và tự do yêu đương trong họ. Điều này thể hiện ở việc Nguyễn Du để tình yêu đến với kim trong và thủy chung từ sự rung động của con tim trong khi xã hội phong kiến ​​chỉ thừa nhận hôn nhân mà không thừa nhận tình yêu nam nữ.

Chính vì tình yêu chân thành với người Việt Nam ở nước ngoài mà Kim Trọng cũng đã vượt qua được bức tường sùng bái phong kiến ​​nhờ quan niệm về trinh tiết, phẩm chất rất tiến bộ của nàng: “như đã lấy chữ hiếu làm trinh tiết” “Tôi có thể dùng bột gì để đục?” . Thủy Kiều cũng được miêu tả là người có tính cách khá táo bạo trong tình yêu vì đã có lúc “anh xăm trổ đầy lối đi trong vườn một mình” .

Đúng vậy vì nó xuất phát từ tư duy nhân đạo, tôn vinh khát vọng giải phóng cảm xúc của phụ nữ vì lẽ ra con người sinh ra được tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do yêu thương. . Mong muốn đó được gửi gắm qua nhân vật Thủy kiều, nhưng tôi nghĩ đó cũng là khát vọng chung của biết bao người phụ nữ dù ở thời đại nào. Bên cạnh việc bênh vực giá trị con người, Nguyễn Du đồng thời bộc lộ lời tố cáo dũng cảm, mạnh mẽ những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người. đó là những tên quan độc ác, khét tiếng tàn ác, không cho dân sống lương thiện như quan tòa kiện người buôn lụa, cha con hoạn quan, hồ đồ.

Đó là thế lực nhà chứa của những kẻ buôn người như tú bà, mã sinh, sở khanh, phụ bạc … sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm, phẩm hạnh của những chàng trai, cô gái tài sắc để trục lợi. . nó còn là sức mạnh của đồng tiền có thể đổi trắng thành đen, và nó là con quái vật điều khiển cuộc sống của con người. Bên cạnh việc tố cáo những thế lực xấu xa ấy, Nguyễn Du còn đặc biệt lên án tư duy thần quyền vì dường như ông trời thường “có thói trăng hoa” , cuộc đời dường như bất công với những con người có tài, có sắc. .

Sức sống của truyện kiều – những khía cạnh giải thích của truyện kiều

Với những giá trị to lớn của “truyện cổ tích” , kiệt tác đó đã thực sự vượt qua giới hạn của không gian và thời gian để thể hiện sức sống bất diệt của nó. Trong dạy học, “truyện kiều” là nội dung được giảng dạy ở nhiều cấp học như trung học cơ sở, trung học phổ thông và thậm chí cả đại học. sở dĩ tác phẩm được đưa vào giảng dạy vì nó có giá trị rất lớn trong việc giáo dục và hình thành phẩm chất con người.

Về lĩnh vực nghiên cứu, “truyện kiều” là cơ sở và tư liệu để chúng tôi có được một bộ sưu tập đầy đủ các bài nghiên cứu lớn nhỏ về tác phẩm. nhiều học giả đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, khai thác những giá trị tốt đẹp của tác phẩm như dao duy anh, tác phẩm ngọc học … có lẽ họ vẫn không mất đam mê nghiên cứu nếu năng lực cơ thể vẫn còn. Các học giả này đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị nghiên cứu về nội dung và đặc điểm nghệ thuật của kiệt tác này.

“Sử ký” vốn là nguồn cảm hứng cho nhiều loại hình sinh hoạt văn hóa trong đời sống hàng ngày của nhân dân ta như Hoa kiều, Hoa kiều, bói toán hay các cuộc thi. . đặc biệt, tại quê hương của tác giả, huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh, người ta còn tổ chức các hoạt động kiều bào để hát và biểu diễn một phần nội dung vở diễn.

Sức sống của “truyện kiều” đã vượt qua cả không gian để xuất hiện như một công trình nghiên cứu, tâm điểm giao lưu trong các đại hội khoa học quốc tế. có những nhà nghiên cứu nước ngoài đã bày tỏ sự trân trọng đối với tác phẩm, vì dịch giả người Pháp Renecrir-sac đã đánh giá trong công trình nghiên cứu của mình rằng “kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du đáng sánh ngang với những kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, bất cứ lúc nào ”.

Dựa trên các bản dịch, nhiều quốc gia trên thế giới đã thể hiện sự đánh giá cao giá trị của “truyện Kiều” , đặc biệt là ở góc độ văn hóa (với các nước châu Á). mùa đông). điều này đã được chứng minh thông qua sự xuất hiện của các tài liệu nghiên cứu về công việc ở Lào, Hàn Quốc và Triều Tiên.

Kết luận: Tựu chung lại, với những giá trị to lớn cả về nội dung và nghệ thuật trong “sử kiều” , Nguyễn Du đã góp phần làm nền. văn học dân tộc là một kiệt tác có giá trị còn nguyên giá trị mãi mãi. Ngắm nhìn tác phẩm “truyện kiều” , chúng ta không chỉ thấy tài năng nghệ thuật của nhà thơ lớn mà còn thấy trong đó là tình cảm chân thành, sâu lắng và khát khao một cuộc sống hòa bình. tác giả luôn mong muốn đất nước và con người chúng ta có được điều đó.

dàn ý thuyết minh về truyện kiều của nguyễn du

Mở đầu phần bình luận về lịch sử của kieu de nguyen du

  • kể về đại thi hào Nguyễn Du cùng với kiệt tác lịch sử kiều bào.
  • nêu bật giá trị của “truyện Kiều” = & gt; thuyết minh về những câu chuyện ở nước ngoài.

Thân bài văn tự sự của nguyễn du về kiều

  • tường thuật về tác giả nguyễn du.
  • tường thuật về lịch sử của nguyễn du ở nước ngoài
    • biết hiện trạng truyện kiều.
    • tóm tắt diễn biến của những câu chuyện về kiều bào.
    • giải thích câu chuyện qua giá trị tư tưởng.
    • giải thích câu chuyện qua sức sống của tác phẩm.

    kết thúc giải thích về lịch sử của kieu de nguyen du

    • làm nổi bật tài năng khám phá tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du.
    • khẳng định những giá trị vĩnh hằng của tác phẩm bằng cách lý giải lịch sử của kiều.

    ul>

    tường thuật về tác giả nguyễn du và mẫu 1

    nguyễn du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có kiến ​​thức uyên thâm về văn hóa dân tộc, văn học chữ Hán, giàu kinh nghiệm sống. Nguyễn Du có vốn sống phong phú và lòng đồng cảm sâu sắc với người lao động. “Truyện Kiều” là một tác phẩm tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.

    Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820 tại làng Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc lớn, có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cuộc đời của ông gắn liền với những sự kiện lịch sử của xã hội phong kiến ​​Việt Nam cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 20. Nguyễn Du sống mười năm ở phương bắc, rồi trở về quê Hà Nội, làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Chính những biến động lịch sử này đã ảnh hưởng đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.

    nguyễn du đã để lại một sự nghiệp văn học lớn với những tác phẩm có giá trị lớn, tiêu biểu là “truyện kí”. “Truyện kiều” là tác phẩm tiêu biểu của thể loại truyện thơ theo thể lục bát, gồm 3254 câu. “Truyện Kiều” dựa trên cốt truyện “Kim văn kiều truyện” của nhà văn tài ba (Trung Quốc), với tài năng của mình, nguyễn du đã tạo nên “truyện kiều” của người việt nam. “Truyện Kiều” lấy bối cảnh thời thuộc Minh (Trung Quốc) nhằm phản ánh xã hội phong kiến ​​Việt Nam cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 19. câu chuyện kể về mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ và tủi nhục của một cô gái tài sắc vẹn toàn bị thế lực đen tối trong xã hội phong kiến ​​bất công nguyền rủa. nguyễn du lược bỏ những chi tiết thủ đoạn, sự trả thù độc ác và một số chi tiết thô tục trong tác phẩm Thanh tâm tài sắc, thay đổi thứ tự tự sự và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra thế giới nhân vật hiện thực, biến sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng. tiết lộ. cảm xúc và tình cảm của nhân vật và người kể chuyện, chuyển trọng tâm câu chuyện từ kể sự kiện sang biểu cảm. nội tâm khiến các nhân vật sống động hơn, có chiều sâu hơn và tác phẩm trở thành một bộ bách khoa toàn thư về nhiều tâm trạng.

    giá trị của truyện kiều được thể hiện trên hai phương diện chính: giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. giá trị nội dung thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. giá trị hiện thực của tác phẩm là hình ảnh hiện thực về xã hội phong kiến ​​bất công của những thế lực đen tối, ma lực đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người, nhất là người phụ nữ. “sử kiều” tố cáo những thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn gian manh, quan trường đến “bọn hoạn quan”, “quan đại thần” rồi đến bọn ma cô, thổ phỉ, … chúng ích kỷ, tham lam, độc ác, coi thường các cuộc sống và phẩm giá con người. . “chuyện của kiều” cũng cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm tha hóa con người. đồng tiền lộn xộn “dù khó đổi trắng thay đen”, đồng tiền chà đạp lương tri và che mờ công lý “ba trăm lạng chỉ có công lao này”.

    Giá trị nhân đạo của “truyện Kiều” được thể hiện ở chỗ, tác phẩm là tiếng nói đoàn kết cho số phận bi thảm của người phụ nữ, đồng thời tôn trọng và đề cao vẻ đẹp, tài năng, ước mơ và khát vọng nhân phẩm. “truyện kiều” là tiếng nói thương cảm, tiếng kêu đau xót trước số phận bi thảm của con người. thuy kieu là nhân vật mà nguyen duy yêu thích nhất. khóc thủy kiều, nguyễn du khóc cho những đau khổ của con người: tình yêu tan nát, xương tàn, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị nguyền rủa. Tình yêu của thủy kiều và kim trong là một tình yêu tự do, trong sáng và thủy chung, đã phá vỡ những quy tắc khôn ngoan về sự ngăn cách của nam và nữ. Thông qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng “thống nhất thiên hạ”, làm chủ cuộc đời, trả thù, báo thù, thực hiện chính nghĩa và coi thường “kẻ sĩ”. >

    “Truyện Kiều” cũng là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc biệt. “truyện kí” là “thành tựu vĩ đại” của văn học trung đại, là kết tinh những thành tựu của văn hoá nghệ thuật dân tộc cả về ngôn ngữ và thể loại. ngôn ngữ quốc gia đạt đến đỉnh cao rực rỡ. ngôn ngữ của “truyện kiều” rất rõ ràng. trong công việc, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ hàn lâm và ngôn ngữ bình dân, cả hai ngôn ngữ này đều được sử dụng có chọn lọc, hợp lý, đúng chỗ, đúng lúc. ngôn ngữ của nhân vật rất riêng, lời nói của nhân vật phù hợp với nhân vật đó càng làm rõ nét tính cách của nhân vật. ngôn ngữ dân tộc đã được nâng lên thành một ngôn ngữ nghệ thuật, có khả năng thể hiện những biến đổi tinh tế của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế của tâm hồn con người. thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được sử dụng hết sức tài tình và hàm súc, hàm súc, có khả năng thể hiện nhiều sắc thái của cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người. nguyễn du đã dày công xây dựng một tiểu thuyết từ thơ lục bát. cả một cuốn tiểu thuyết mà không có một câu ép buộc nào. nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc. nghệ thuật thể hiện nhân vật ở mức độ điêu luyện. với nhân vật chính, tác giả chủ yếu dùng ước lệ tượng trưng, ​​lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp của con người. Còn với những nhân vật phản diện, tác giả chủ yếu khắc họa hiện thực, đi sâu và lột tả sự xảo quyệt, ranh ma của chúng. có thể nói với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, nguyễn du thường tìm được thần thái của nhân vật để miêu tả dù chỉ một vài câu thoại hay một vài từ cũng lột tả được toàn bộ bản chất của nhân vật. nghệ thuật kể chuyện trong “truyện kiều” cũng là một thành công đáng kể. tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thể thơ lục bát với phong cách tự sự và miêu tả nhân vật độc đáo. lối viết miêu tả tinh tế nhất là bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh để đào sâu khám phá nội tâm nhân vật.

    “Truyện Kiều” là một kiệt tác của dân tộc Việt Nam, là di sản văn học của nhân loại, tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo, lòng nhân ái sâu sắc và tư tưởng muôn thuở, cũng là thái độ trân trọng, quý trọng những giá trị nhân văn cao cả của con người. chúng sinh.

    “Truyện Kiều” đã được phát hành rộng rãi trong và ngoài nước và thu hút mọi tầng lớp độc giả. tác phẩm đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của mọi người Việt Nam. tuy nhiên, bình luận về nguyễn du và “truyện kiều”, mộng liên du cho rằng: “ông là người có đôi mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ đến ngàn đời. Ông viết” truyện kiều “như máu chảy ra từ đầu bút, nước mắt thấm qua trang giấy, … ”. “Truyện Kiều” của cụ Nguyễn Du sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc Việt Nam.

    tường thuật về tác giả nguyễn du và mẫu 2

    Nói đến những tác giả, tác phẩm nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm Truyện ngắn Hải ngoại. Với kiến ​​thức uyên thâm và tài năng văn chương kiệt xuất, ông đã tạo nên những tác phẩm bằng chữ Việt và chữ Hán có giá trị. trong đó nổi bật là tác phẩm truyện kiều.

    Nguyên du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên đẹp, hiệu là thanh hiền, quê ở làng tiên điện, huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. cha tôi là nguyễn nghiêm, cũng là người giỏi văn chương. ông đỗ tiến sĩ và trở thành tể tướng. mẹ anh ấy là bà. Trần thị tân, con gái Bắc Kinh cũng biết chữ. Người anh cùng cha khác mẹ của ông là Nguyễn Khản cũng làm quan từ thời Lê Trịnh. Dù xuất thân trong một gia đình danh giá nhưng cuộc đời anh lại đầy rẫy những đau thương. Năm 13 tuổi mồ côi cha mẹ, phải đến ở với Nguyễn Khản. Nhưng năm 15 tuổi Nguyễn Khản bị quy tội phản quốc, phải nương nhờ họ hàng xa, có thể nói cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với những sự kiện lịch sử giai đoạn thế kỷ X đầu thế kỷ XX. thế kỷ. . Đây là một thời kỳ đầy biến động mà giai cấp thống trị thối nát, tham lam, không quan tâm đến nhân dân, họ giết nhau để tranh giành quyền lực. Có thể nói chế độ phong kiến ​​Việt Nam lúc bấy giờ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, nhân dân khốn khổ lúc bấy giờ đã nổi dậy đấu tranh, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa tay sơn của Nguyễn Huệ. trong cảnh ấy, nguyễn du sống ở nhiều nơi, có khi ở thăng long, có khi ở quê nội hà nội, có khi ở quê ngoại với thái bình. Tiếc thay, khi Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802, Nguyễn Du bất đắc dĩ phải làm Thượng thư. Trước khi phục vụ nhà Lê, nay khi làm quan nhà Nguyễn, ông rất nhút nhát, hai lần được cử sang Trung Quốc, nhưng lần thứ hai vào năm 1820, chưa kịp đi thì ông lâm bệnh và mất tại Huế. cuộc đời đầy thăng trầm nhưng vì thế mà ông hiểu biết rộng và cảm thương cho những số phận bi thảm của con người.

    Nguyễn Du là một thiên tài văn học với nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có ba tập thơ chữ Hán là thanh hiền thi tập, bắc hành tạp lục, nam trung tạp ngữ và tác phẩm nổi bật nhất về chữ viết là truyện du ký. . ở nước ngoài.

    Truyện kiều, trước đây có tên là “du ký tân thanh”, là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện du mục trong văn học trung đại Việt Nam. viết truyện kiều, nguyễn du dựa theo truyện “kim văn kiều truyện” của thanh tam, một tài hoa người Trung Quốc, nhưng phần sáng tạo của nguyễn du rất xuất sắc khi tác phẩm của ông được viết theo thể thơ lục bát, gồm 3254 câu. . ba giai đoạn: gặp gỡ và hứa hôn, chuyển đổi gia đình và lang thang, đoàn tụ, câu chuyện được tóm tắt như sau:

    Thủy kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sinh ra trong một gia đình trung lưu lương thiện với hoàng tộc, gia đình có ba chị em: Thủy kiều, thủy vân và ngự quan. Trong một chuyến du xuân ra nước ngoài gặp Kim Trọng, họ yêu nhau rồi đính hôn. Khi Kim Jong-un về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình ở nước ngoài gặp tai nạn và Việt kiều phải bán thân chuộc cha. cô bị lừa bởi bọn đại lý, mã trường, tiểu thư, sở khanh và chúng đẩy cô vào lầu xanh. lần thứ nhất, người chú chuộc nước và cưới nàng làm vợ lẽ, nhưng thái giám đã ghen tuông đánh nàng. Anh trốn khỏi nhà y tá nhưng lại rơi vào tay bạc hà và phải vào lầu xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “cùng đội trời, đạp đất” chuộc Việt kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Việt kiều trả ơn, báo thù. Một lần nữa, Việt kiều vướng vào âm mưu cúng bái, chết trên chân, Việt kiều bị ép gả cho một quan đất. tủi nhục, đau đớn nàng nhảy xuống sông tiền. sư cô cứu cô và thủy kiều đi tu. kim trong thuy van tái hôn nhưng anh vẫn không quên được kiều, anh đã đi tìm anh. anh đã gặp được vị hòa thượng nhân duyên để rồi gặp nhau ở nước ngoài. hai người gặp lại nhau nhưng mối lương duyên đã hết.

    Có thể nói đây là một kiệt tác có nội dung sâu sắc và nghệ thuật thành công. đây là hình ảnh của một xã hội tàn bạo và bất công, chà đạp lên những người nghèo khổ, đặc biệt là phụ nữ. do đó lên án các thế lực của cái ác. đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do, hạnh phúc và chân chính. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, nhà kinh doanh, nhà văn hóa và nhân văn, người có ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học Việt Nam. Truyện của nguyễn du và kiều nữ sẽ sống mãi trong lòng người đọc, mãi mãi với dân tộc.

    tường thuật về tác giả nguyễn du và lịch sử của mẫu 3

    Khi nói đến những tác giả, tác phẩm xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam, chúng ta nghĩ ngay đến Nguyễn Du và truyện kiều của ông. Với lòng nhân đạo nồng nàn và tài năng văn chương kiệt xuất, Nguyễn Du đã để lại dấu ấn sâu đậm qua các tác phẩm, đặc biệt là Truyện Kiều.

    Nguyễn Du tên tự, thụy hiệu là Thanh Hiên (1765 – 1820), quê ở Thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. ông xuất thân trong một gia đình quý tộc, nhiều đời làm quan, ông có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, làm tể tướng dưới triều Lê, đồng thời cũng là một người giỏi văn. mẹ là Trần thị tân, con gái kinh bắc. anh trai cùng cha khác mẹ của bà (con gái chính) là Nguyễn Khản làm quan đến hầu tòa và thái bảo tại tòa. Nguyễn Du sống trong thời kỳ đầy biến động của xã hội phong kiến ​​Việt Nam, đó là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, giai cấp thống trị thối nát, tham lam, tàn bạo và các tập đoàn phong kiến ​​(le – trinh – nguyen) tàn sát lẫn nhau. nông dân náo loạn khắp nơi, đời sống nhân dân khốn khó, nhiều cuộc nổi dậy nổ ra, tiêu biểu là phong trào đấu tranh mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Nguyễn Huệ. Những yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến cảm xúc và nhận thức của Nguyễn Du. anh sớm rơi vào cảnh mồ côi (9 tuổi, cha mất, 12 tuổi mẹ mất), anh phải sống phiêu bạt nhiều năm, ở nhiều nơi, có lúc ở thăng long, có lúc ở quê nội, có lúc. anh về quê vợ ở Thái Lan. Những biến động lịch sử và cuộc đời đó đã tác động rất lớn đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du. Vì vậy, ông cũng mang nhiều tâm trạng: Trung thành với nhà Lê, chống lại quân Tây Sơn, rồi làm quan nhà Nguyễn, nhưng lại rụt rè, đa sầu đa cảm. có thể nói cuộc đời của ông thăng trầm, gian khổ, đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều hạng người, từng trải, sống giàu sang, ý thức rộng, được coi là một trong năm người bậc nhất phương nam thời bấy giờ. . giờ. Ông còn là người có tấm lòng nhân ái, đồng cảm sâu sắc với người nghèo, nỗi khổ của nhân dân, hơn hết Nguyễn du nổi tiếng với tấm lòng là người luôn nghĩ đến nhân dân, luôn bênh vực nhân dân suốt đời. . những số phận oan trái và bất công, đặc biệt là thân phận của những người phụ nữ.

    Nguyễn Du còn là người có tài năng văn chương thiên bẩm, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, một ngôi sao sáng trong nền văn học trung đại Việt Nam. Về sự nghiệp, văn học Nguyễn Du có nhiều sáng tạo lớn cả về chữ Hán và chữ Nôm. kinh trung quốc có thanh dương thi tập (78 bài), bac hanh tap luc (125 bài), nam trung tam ngâm (40 bài) … soạn kịch bản du mục với hồn van hiu, văn chương với hai cô gái từ lâu. đứng , điển hình là tác phẩm truyện kiều hay còn gọi là tân thanh trường thành.

    Truyện kiều ra đời vào đầu thế kỷ X (khoảng 1805 – 1809), lúc đầu gọi là truyện kiều tân thanh, sau đổi thành truyện kiều. Vở kịch dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) nhưng có sự sáng tạo tài tình và cải biên, thêm thắt nhiều yếu tố trong cốt truyện cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ. Đó là một câu chuyện du mục được viết bằng thể thơ lục bát, dài 3.254 câu, chia làm 3 phần (gặp gỡ và hứa hôn; gia đình chuyển kiếp và lưu lạc; đoàn tụ). chủ đề của truyện viết về cuộc đời của một người xa xứ nhưng qua đó tố cáo xã hội phong kiến ​​thời bấy giờ chà đạp, đẩy người phụ nữ vào ngõ cụt; đồng thời tôn lên vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nói chung. tác phẩm còn thể hiện rõ nét hiện thực cuộc sống đương thời với “con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ đến muôn đời” của nhà thơ.

    Kieu’s story kể về cuộc đời truân chuyên của một cô gái tài sắc vẹn toàn. Thuý Kiều là một cô gái sinh ra trong gia đình họ Vương có ba chị em: Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. kiều nữ tài sắc vẹn toàn trên người. cô ấy cũng là một cô gái ngoan ngoãn. Tại lễ hội đạp chân, Kiều gặp Kim Trọng, họ yêu nhau rồi đính hôn. Khi Kim Jong-un trở về Liêu Dương để lo tang lễ cho chú mình, gia đình ở nước ngoài gặp tai họa và Việt kiều phải bán đứng để chuộc cha. khai sinh mã mua việt kiều lâm tri. tu ba bày mưu biến cô thành gái lầu xanh. chuộc nhà ngoại và cưới nàng làm vợ lẽ. chàng lại trở thành hoạn quan: vợ chàng sai lính bắt nàng làm nô lệ đào hoa và giở trò đánh ghen. anh ta bỏ trốn khỏi viện dưỡng lão. nhưng lại rơi vào tay người phụ bạc, kẻ bất hạnh phải vào lầu xanh lần thứ hai. tại đây, kiều gặp tứ hải, một anh hùng “đội trời, đạp đất”, chuộc kiều bào ra khỏi lầu xanh, giúp kiều bào trả ơn, báo thù. Một lần nữa, Việt kiều rơi vào bẫy thờ cúng, anh Hải gục chết trên bàn chân của mình. Việt kiều bị cưỡng chiếm đất quan. tủi nhục, đau đớn, nàng nhảy xuống sông Tiền tự tử và được một nhà sư cứu sống, xuất gia tu hành. Kim trong trở về sau nửa năm, cưới thủy chung theo lời định mệnh của kiều nữ.

    sau do, kim trong va vua rong rai to chuc vu kieu. May mắn thay, họ đã được đoàn tụ với Thúy Kiều, được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng sau mười lăm năm lưu lạc.

    giá trị của truyện Kiều được thể hiện ở hai phương diện chính: nội dung và nghệ thuật.

    giá trị của nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân văn.

    Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. sức mạnh của đồng tiền và số phận của những người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là phụ nữ. gia đình nhà vua đang sống yên ổn, chỉ vì một lời nói của một người buôn lụa “vu oan giá họa” nên cuộc sống yên bình bị phá vỡ, tai họa ập đến với nhà xa xứ. sau đó, lính canh vào nhà ngoại cướp bóc, đánh đập, được một số quan lại dung túng, che chở, lôi kéo. thủ lĩnh bọn lưu manh thẳng thắn yêu cầu: “ba trăm lượng, việc này sẽ làm.” Nguyễn Du đã miêu tả tên quan toà trong vụ án Việt kiều: “Nhìn mặt sắt đen”. ho tấn, một vị quan vĩ đại nhất trong lịch sử xứ kiều, đại diện cho triều đình phong kiến ​​với tư cách là một vị quan đại thần nhưng “lạ là mặt sắt cũng phải lòng”. sức mạnh của đồng tiền khi vào tay kẻ xấu thì thật khủng khiếp, đồng tiền đã trở thành sức mạnh vạn năng chi phối mọi hoạt động, làm băng hoại lương tâm, nhân phẩm của con người. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã viết về tiền trong truyện kiều: “Quan vì tiền mà bất chấp công lý, bọn quan lại vì tiền mà hành hạ cha con, vua, ông, mẹ và sinh viên sư phạm vì tiền. con chó ung vì tiền mà phạm tội, cả xã hội chạy theo đồng tiền. cuộc đời đẫm nước mắt của một cô gái tài hoa bạc mệnh ở nước ngoài cũng bắt đầu bằng quyền lực và sự vô nhân đạo của đồng tiền.

    Giá trị nhân đạo được thể hiện trên hết là tôn trọng con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng, khát vọng, ước mơ và tình yêu chân chính. xét về dung mạo, ta thấy nàng thùy văn là một cô tiểu thư đoan trang, đoan trang, kiều diễm thuộc vào loại “sắc nước hương trời” – hơn người, hơn đời, kim trong mang vẻ đẹp của một văn nhân và thư sinh, thuộc loại anh hùng đẹp đẽ: vai rộng năm tấc, thân cao mười thước. xét về phẩm chất, thùy van là một cô gái tốt. kim trong – một chàng trai trung thành. tài hoa kiều (tay, thi, họa): người con hiếu thảo, giàu đức hi sinh, người yêu trung thành. tình yêu kim kiều: tình yêu trong sáng và ngây thơ, vượt qua những hạn chế khắt khe của lễ giáo phong kiến ​​trong thời kỳ chế độ phong kiến ​​suy tàn.

    Bên cạnh đó, lịch sử cũng lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền tự do và công lý của con người. Thủy kiều là điển hình của một người phụ nữ trong xã hội cũ, mười lăm năm lưu lạc của cô là một chuỗi bi kịch. dường như mọi đau khổ của người phụ nữ xưa nay đều đổ lên vai họ. từ một thiếu nữ khuê các, kiều nữ trở thành món hàng để người ta mua bán, rồi kiều nữ gian dối hai lần sa vào lầu xanh, dùng thân mình để thực thi công lý, trở thành một đứa trẻ sống và bị đánh đập tơi bời. . .. tủi nhục trở thành tội phạm nơi công cộng, tủi nhục, cô gục ngã trước hiện trường bị chồng giết và cuối cùng tự sát. cuộc sống của người ngoại tộc là lời tố cáo mạnh mẽ tố cáo xã hội phong kiến ​​vô nhân đạo khiến những người lương thiện phải tìm đến cái chết. trong khi anh truyền tải khát vọng tự do và công lý qua nhân vật Hai và màn trả thù.

    mặt khác truyện kiều còn thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với những nỗi khổ của con người, nhất là người phụ nữ. Nguyễn du cảm động khóc trước âm nhạc và cuộc đời của thủy chung, anh cũng bày tỏ sự kính trọng của mình dành cho cô dù cô ở dưới đáy xã hội.

    Mặt khác, lịch sử Nguyễn Du kiều có thể khắc sâu vào lòng người vì nó có giá trị nghệ thuật. trong tác phẩm của mình anh đã bộc lộ tài năng và sự sắc sảo trong nghệ thuật kể chuyện, tả nhân vật, tả cảnh, dùng từ… hay nói đúng hơn là giá trị nghệ thuật của tác phẩm. về ngôn ngữ: truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật. Với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến sự giàu đẹp. Về nghệ thuật tự sự, truyện kiều thành công về mọi mặt: ngôn ngữ trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả: miêu tả cảnh ngụ ngôn.

    bình luận về nguyễn du và truyện kiều, tác giả mộng liên du trong lời tựa truyện kiều đã viết: “lời văn như muốn chảy máu đầu bút, nước mắt thấm xuống giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm cái thìa, ngậm ngùi, đau thắt ruột những yếu tố như dùng trái tim đã khổ rồi, tường thuật khéo léo, tả cảnh trùng điệp, lập hội thoại, nếu không có con mắt nhìn thấu sáu cõi, một tấm lòng suy nghĩ ngàn đời cũng không thể có được một ngòi bút như vậy ”. đó là một cái nhìn tổng quan tuyệt vời về giá trị của những câu chuyện về kieu ở mọi khía cạnh.

    từ quê hương, xã hội, gia đình, cuộc đời, tài năng bẩm sinh đã tạo cho Nguyễn Du một tấm lòng nhân ái cao cả, một thiên tài văn học với sự nghiệp văn chương được đánh giá cao. ông là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới, có đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam. câu chuyện về nguyễn du và kiều nữ sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn của dân tộc.

    tường thuật lịch sử người Việt Nam ở nước ngoài theo mô hình 4

    nếu văn học Trung Quốc tự hào về văn hào tấn, văn học nga tự hào về văn hào macxim gooky thì Việt Nam cũng tự hào về đại thi hào Nguyễn Du. ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một tác phẩm văn học rất nổi tiếng là truyện kí. Với tính giáo dục sâu sắc, tài năng văn chương kiệt xuất và giá trị nhân đạo sâu sắc, truyện Kiều và Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thực sự trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

    Nguyên du (1765-1820), tên chữ là Thanh hiền, quê ở làng Tiền Điện, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. ông đỗ tiến sĩ và trở thành tể tướng. mẹ cô là Trần thị tân, người con gái ở Bắc Kinh cũng biết đọc và biết viết. Người anh cùng cha khác mẹ của ông là Nguyễn Khản làm quan từ thời Lê Trịnh.

    Anh ấy xuất thân trong một gia đình danh giá, nhưng cuộc đời của anh ấy lại đầy rẫy những đau thương. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cha mẹ, phải sống với anh trai là Nguyễn Khản. Năm 15 tuổi, nguyễn hãn bị vu cáo, phải nương nhờ họ hàng xa. Đặc biệt, cuộc đời của ông gắn liền với những sự kiện lịch sử của giai đoạn thế kỷ X, đầu thế kỷ 20, thời kỳ mà giai cấp thống trị thối nát, tham lam, không quan tâm đến dân, giết nhau để tranh giành. sức mạnh.

    lưu lạc nhiều nơi trong hoàn cảnh đó, năm 1802, nguyễn anh lên ngôi, nguyễn du phải bất đắc dĩ ra làm quan. Ông được cử sang Trung Quốc hai lần, nhưng lần thứ hai vào năm 1820, chưa kịp đi thì ông lâm bệnh và mất tại Huế. Mặc dù cuộc đời của ông có nhiều biến cố, nhưng bù lại ông đã có được kiến ​​thức sâu rộng và lòng cảm thương đối với số phận bi thảm của con người. ông là nhà thơ lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có ba tập thơ chữ Hán gồm thanh thế thi tập, bắc hành tạp lục, nam trung tạp ngữ và tác phẩm tiêu biểu nhất là truyện kí.

    câu chuyện về kiều trước đây được gọi là “duong tan thanh”. Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tạo từ truyện “Kim văn kiều truyện” của thanh tam, một tài năng người Trung Quốc. tuy nhiên, khác với “đoạn trường tân thanh”, truyện kiều được viết theo thể thơ lục bát, gồm 3.254 câu thơ, chia làm ba giai đoạn: gặp gỡ và hứa hôn, chia tay và lưu lạc và đoàn tụ.

    Câu chuyện kể về cuộc sống của một người nước ngoài. Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, được nuôi dưỡng trong một gia đình trung lưu lương thiện nhà họ Vương, có ba chị em Thuý Kiều, Thuý Vân và Vương Quan. Trong một lần đi du xuân, Kiều gặp Kim Trọng, hai người yêu nhau rồi tự do hẹn hò trong bí mật. gia đình kim trong bị tai nạn, chú mất, kim trong phải về quê chịu tang chú, hải ngoại cũng gặp tai nạn, hải ngoại phải bán thân chuộc cha.

    kieu bị lừa bởi những người buôn bán là sinh viên, cô bác học lập trình và lạc vào chốn lầu xanh. Kiều gặp chú ruột và được về làm vợ lẽ, nhưng thái giám lại là vợ của người chú ghen tuông, nàng đã trúng tiếng sét ái tình. trốn khỏi nhà mụ mụ rơi vào trong tay bạc hà, hạnh phúc lang thang mặt đất xanh lần thứ hai. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng “đội trời đạp đất”. tuy nhiên, Việt kiều vướng vào âm mưu cúng bái, kể từ khi chết biển, Việt kiều bị ép gả cho một ông quan quê. Vì quá nhục nhã và đau đớn, anh đã ném mình xuống sông tiền. sau đó, cô được sư thầy cứu giúp và quyết định đi tu. kim trong, sau tang thu thuy van, nhung anh van khong phai la kieu. Sau 15 năm lưu lạc ở nước ngoài, nàng được đoàn tụ với gia đình và Kim Trọng, nhưng nhất quyết không lấy Kim Trọng mà trở thành tri kỷ của chàng.

    Giá trị nội dung thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. truyện Kiều phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. sức mạnh của đồng tiền và số phận của những người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là phụ nữ. cuộc đời đẫm nước mắt của một cô gái tài hoa bạc mệnh ở nước ngoài cũng bắt đầu bằng quyền lực và sự vô nhân đạo của đồng tiền.

    câu chuyện còn mang giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Trước hết, chúng tôi tôn trọng mọi người về ngoại hình, phẩm chất, tài năng, khát vọng, ước mơ và tình yêu đích thực. đồng thời lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.

    mặt khác, truyện kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với số phận, nỗi khổ của con người, nhất là người phụ nữ, trân trọng tài năng và vẻ đẹp của những con người tài hoa bạc mệnh.

    Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã thể hiện sự tài hoa, sáng suốt trong nghệ thuật tự sự, tả nhân vật, tả cảnh và sử dụng ngôn ngữ. Truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật, với lối viết của một nghệ sĩ thiên tài, ngôn ngữ tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến sự giàu đẹp. Với cách sử dụng ngôn ngữ trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả và dựng cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã tái hiện thành công hình ảnh một xã hội tàn bạo, bất công chà đạp lên những người nghèo khổ, đặc biệt là người phụ nữ. do đó lên án các thế lực của cái ác. đồng thời, nó cũng bảo vệ vẻ đẹp ngoại hình, tài năng, nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do, hạnh phúc và chân lý.

    Thành công về mặt nội dung và nghệ thuật là vậy, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm tiêu biểu của đời thơ Nguyễn Du và nền văn học dân tộc. Truyện của nguyễn du và kiều nữ sẽ sống mãi trong lòng độc giả, mãi mãi với dân tộc.

    tường thuật lịch sử người Việt Nam ở nước ngoài theo mô hình 5

    Nguyên du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo kiệt xuất với “con mắt nhìn thấu lục đạo” và “tấm lòng nghĩ mãi ngàn đời” (mộng liên tang chính tuyến). .

    nguyễn du, tên chữ tương, biệt hiệu là thanh hiền, quê quán tại thôn tiên điện, huyện nghi xuân, tỉnh hà tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình nhiều đời, nhiều người làm quan lớn dưới triều Lê, Trịnh. cha ông là nguyễn nghiêm, làm tể tướng được 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tân, một người phụ nữ quê Kinh Bắc có tài ca hát.

    Quê hương của Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, học giả, trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống khoa bảng, có nhiều tài văn chương. gia đình và đất nước là “mảnh đất màu mỡ” nuôi dưỡng thiên tài nguyễn du.

    Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Năm 10 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời bắt đầu gặp nhiều thăng trầm trong thời kỳ loạn lạc của dân tộc suốt 3 năm: Sống với Nguyễn Khản (người anh cùng cha khác mẹ là Tể tướng của phủ chúa Trịnh), Nguyễn Khản bị giam cầm, bị bầy đàn tiêu diệt, phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam giáp, làm quan đến chức vô biên ở Thái Nguyên. Chẳng bao lâu sau khi nhà lê sụp đổ (1789), nguyễn du lánh nạn về quê vợ ở thái bình, sau đó vợ mất, ông về quê cha, thỉnh thoảng đi bắc ninh về quê mẹ, nhất thời không nhà cửa. người dân sống ở thủ đô thăng long.

    Trong hơn chục năm bôn ba trên đất Bắc, nguyễn du sống gần gũi với con người và thấm nhiều cái nóng, cái lạnh của đời sống con người, nhất là những người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, ca hát, ăn uống … bạn … những người “dưới đáy”. chính nỗi bất hạnh lớn lao của cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du, một nhà nhân đạo lớn.

    Bất đắc dĩ, theo lời mời của triều Nguyễn, Nguyễn Du trở thành Thượng thư. Năm 1813, ông được thăng chức Tham tri phủ sứ, được cử sang Trung Quốc làm chánh sứ. năm 1820 được cử đi lần thứ hai, nhưng chưa kịp ra đi thì đột ngột qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thân (18 tháng 9 năm 1820). Trong thời gian làm quan nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói và có nhiều bí mật không biết kể cho ai nghe.

    Tư tưởng của nguyễn du khá phức tạp và có nhiều mâu thuẫn: trung thành với triều Lê, không hợp tác với tây sơn, miễn cưỡng làm quan của triều nguyễn. là người có lý tưởng và hoài bão, nhưng trước gió bụi cuộc đời tẻ nhạt, nguyễn du coi mọi việc (tu phật, trường sinh, câu cá, săn bắn,…) là viển vông nhưng lại rơi vào trường quy trước khi làm dâu. phá vỡ. Nguyễn Du thấy mình giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử bi tráng. đó là bi kịch của cuộc đời ông, nhưng đó chính là điều khiến tác phẩm của ông chứa đựng một chiều sâu chưa từng có trong nền thơ ca Việt Nam.

    Nguyễn Du có ba tuyển tập thơ chữ Hán: thanh dương thi tập, nam trung tạp ngâm và bac hanh ta luc, tổng cộng 250 bài thơ, nguyễn du có kiệt tác đoạn trường tân thanh (truyện kiều) và văn học. tế các loại chúng sinh (văn tế cô hồn) và một số sáng tác mang tính đại chúng như: tế sống hai cô gái sống lâu; Quay trở lại thác nước để đến thị trấn của Cone.

    ở đầu câu chuyện của bạn nguyen du tâm sự:

    “đang trải qua một mớ hỗn độn

    những điều khiến bạn đau lòng khi xem. ”

    Chính những điều “đã thấy” đã làm cho tác phẩm của nguyễn du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. và sự “đau lòng” đã khiến nguyễn du trở thành một nhà thơ nhân đạo được chú ý.

    nguyễn du là một nhà thơ “trong lao động, mở rộng tâm hồn để đón nhận mọi ồn ào náo nhiệt của cuộc sống” (nam cao). thơ chữ Hán của thanh hiền giống như nhật ký của cuộc đời, nhật ký của tâm hồn. nào là cảnh sống ít, bệnh tật đến hiện thực lịch sử … đều được nguyễn du ghi lại một cách chân thực (đêm thu: thản nhiên làm thơ; ngồi …). nguyễn du chỉ ra sự tương phản giàu nghèo ở sở xây dựng hay giả thái bình ca buôn bán … nguyễn du phản đối việc gọi hồn ẩn nguyễn về nước tông ngưu vì “cát bụi đất nước là sai. cơm áo cho người ta “. bộ” nanh vuốt “,” thuốc độc “,” xé thịt người nhai ngọt “… đất nước của huyền bí hay đất nước Việt Nam của yếu tố chỉ là một thực tại – cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không có chỗ đứng là truyện kiều mượn bối cảnh đời người (Trung Quốc), mà trước hết, đó là lời tố cáo mạnh mẽ ghi lại những “điều đã thấy” của nguyễn du Về thời đại mà nhà thơ đã sống. thái độ phê phán quyết liệt, là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.

    Tác phẩm của nguyễn du mang tư tưởng nhân đạo, hơn hết là sự quan tâm sâu sắc đến thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là lời buộc tội mà còn là khúc ca về tình yêu tự do trong sáng, ước mơ về tự do và công lý. nhưng toàn bộ câu chuyện hầu hết là tiếng khóc xé lòng cho thân phận và nhân phẩm của con người đang bị chà đạp, đặc biệt là phụ nữ.

    “nỗi đau cho phụ nữ

    từ xui xẻo cũng là một từ phổ biến ”

    Không chỉ lịch sử kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều chứa đầy nỗi niềm, nỗi niềm: từ đọc tiểu thanh đến ca sĩ đất long thành, từ chạm kiến ​​đến mười nguyên du các loại. văn chương thậm chí vượt qua cột mốc biên giới, thậm chí vượt qua ranh giới giữa ta và địch, thậm chí vượt qua khoảng cách âm dương để tiếc thương những người hy sinh nơi trận mạc, phơi bày “bộ xương trắng” nơi “cửa ải”.

    không chỉ ngậm ngùi, nguyễn du còn biết trân trọng, ngợi ca cái đẹp, với khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư duy nhân đạo của Nguyễn Du đã khắc phục một số hạn chế của hệ tư tưởng, tôn giáo phong kiến ​​để khẳng định lòng tự trọng của con người. đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông mang đến cho nền văn học Việt Nam vào thời đại của mình.

    nguyen du đã có những đóng góp to lớn về tư tưởng và cả những đóng góp quan trọng về nghệ thuật.

    Thơ chữ Hán của nguyễn du giản dị mà tinh tế và tài hoa. Thơ văn của nguyễn du thật sự là một đỉnh cao chói lọi. Nguyễn du đã sử dụng nhuần nhuyễn hai thể thơ dân tộc: thơ lục bát (truyện kiều) và song thất lục bát (văn tế thập loại chúng sinh). của nguyễn du, thơ lục bát và bài song thất lục bát đã đạt đến mức hoàn mỹ, mẫu mực và kinh điển.

    Nguyễn Du đã có đóng góp to lớn và rất quan trọng vào sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Việt Nam: tỷ lệ từ ngữ trong tiếng Việt giảm đáng kể, câu thơ tiếng Việt thông tục, thanh thoát, đẹp đẽ nhờ vần điệu gọn gàng, ngắt nhịp đa dạng, đồ thị con phong phú và biến đổi. Thơ văn Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam. đặc biệt, truyện Kiều của Nguyễn Du là “một tuyển tập truyện ngôn tình hay” về ngôn ngữ văn học dân tộc.

    Tôi xin mượn lời của nhà thơ trong bộ ba cùng thành tố để thay cho lời kết:

    “bài thơ của ai đã làm rung chuyển bầu trời

    âm thanh như nước vang lên hàng ngàn từ

    một ngàn năm sau, nhớ nguyen du

    tình yêu như lời ru của mẹ bao ngày tháng ”.

    tường thuật lịch sử người Việt Nam ở nước ngoài theo mô hình 6

    nhà phê bình hoai thanh đã từng nhận xét về tác giả nguyen du và “truyện kiều”: “tuy nguyen du tạo ra nhân vật yêu kiều, nhưng yêu kiều là có thật đối với nguyên du, nhưng nguyên du từ lâu đã sống trong tâm hồn. Tình yêu đã hòa vào kiều như một ”, giúp ta thấy được kiệt tác“ truyện kiều ”ghi dấu tâm huyết và tài năng của nhà thơ.

    biệt hiệu của đại thi hào nguyễn du là thanh hiền, tên chữ như một nguyên tố. ông xuất thân trong một gia đình quý tộc lớn, giàu truyền thống khoa bảng. cơn lốc lịch sử đã đánh sập tòa tháp tím và đẩy anh vào một cuộc sống bất ổn, bị đày ải suốt mười lăm năm. cuộc sống đó đã bóp nghẹt những lý tưởng kiên định khiến anh sống cuộc sống như những người bình thường. một người thanh liêm, sống trong thanh liêm, coi thường bọn quan lại chỉ lo vinh hoa, phú quý mà không màng đến dân, nước, nay lại là người trực tiếp chứng kiến ​​nỗi thống khổ của nhân dân nên ông rất có tâm. đời sống. vương quốc những đòn đời khiến nhà thơ đồng cảm sâu sắc với mọi kiếp người tha hương, tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm “truyện kiều” sau này. kiến thức uyên bác là cơ sở để kiệt tác “Truyện Kiều” trở thành viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam về giá trị nghệ thuật.

    mộng liên du cho biết: “những dòng chữ được miêu tả như có máu chảy trên đầu bút, nước mắt thấm vào trang giấy khiến ai đọc đến cũng phải trầm ngâm, thương tâm, đau đớn như đứt ruột”. tác phẩm ban đầu có tựa đề là “đường tân thanh”, nhưng người ta gọi là “truyện ký”. lịch sử thơ ca lấy nội dung từ tiểu thuyết “kim văn kiều truyện” nhưng những sáng tạo của đại thi hào. Câu chuyện kể về mười lăm năm lưu lạc và tủi nhục của một người nước ngoài, sau khi trở thành người của gia đình, bán mình để chuộc cha và em trai. Chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Nguyễn Du đã biến một câu chuyện tình đau thương thành một khúc ca đau thương, với những điều xui xẻo, những gì mắt thấy, tai nghe trong xã hội bấy giờ cũng lọt vào trang viết của nhà thơ. “truyện kí” ca ngợi tình yêu tự do và ước mơ công lí. Chuyện tình Kim Kiều dám vượt qua những giới hạn của lễ giáo phong kiến ​​khắt khe để cùng thề thốt, rung động đầu đời trong sáng, chân thành, không vụ lợi. kieu’s image:

    “một mình xăm qua lối đi trong vườn”

    chúng tôi cũng rất ngạc nhiên bởi nguyen du đã nuôi dưỡng tinh thần chủ động đó. Giữa gian truân gian truân, nhà thơ khắc họa nhân vật Hai không chỉ thể hiện khát vọng công bằng xã hội mà nhân vật phản ánh phần nào lí tưởng của nhà thơ một thời bị tù đày. Từ Hải là một ngôi sao sáng qua cuộc đời ở nước ngoài, giúp cô thực hiện những cuộc trả thù, báo thù thích đáng. đọc “truyện kiều” như vang lên những tiếng kêu đau đớn cho thân phận con người. nguyen du đã từng nói:

    “Kim loại cổ đại ghét các vấn đề tự nhiên

    thật đáng buồn, sự hy sinh của bản thân ”

    Người ta cho rằng “chữ tài đi liền với chữ tài” nên mới xoay quanh cuộc đời của một người Việt Nam ở nước ngoài: một cô gái tài sắc vẹn toàn luôn phải chịu nhiều sóng gió. tiếng khóc ảm đạm cho mối tình kim kiều “đứt gánh tình duyên”, lời tâm tình của bạn hải và người đàn bà hải ngoại. những giọt nước mắt cay đắng khi nhân phẩm bị chà đạp dưới chân, thân phận con người bị đánh đập dã man. sâu xa hơn là tiếng khóc vang lên đòi quyền sống cho các dân tộc trước nỗi đau của thế giới. nguyễn đình thi nhận xét: “sử kiều” là thanh sắt đánh thẳng vào sự bất công, độc ác và dối trá… ”, bài thơ có thể coi là lời tố cáo mạnh mẽ vạch trần sự thối nát, thối nát của xã hội Việt Nam bấy giờ. những tầng lớp bị ô nhục bởi ảnh hưởng của tiền bạc buôn lụa, những người buôn thịt như tú bà, bạc mệnh, bạc mệnh, quan lang … tên những kẻ chà đạp quyền sống của con người.

    “Truyện Kiều” có sức sống lâu bền nhờ những giá trị nghệ thuật độc đáo. Với trình độ học vấn sâu sắc của mình, Nguyễn Du đã xây dựng thành công một nhân vật sống động và cá tính. Cô gái ngoại quốc không phải là một nhân vật minh họa, nhưng cô ấy có một đời sống nội tâm, và những lý tưởng cao đẹp của Từ Hải cũng được khắc ghi. Với thể thơ lục bát truyền thống, đại thi hào đã biến một cuốn tiểu thuyết thành một bài thơ trang nhã và cổ điển. điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng thay đổi linh hoạt, đưa vào từng nhân vật khiến tác phẩm không bị khô cứng. ngôn ngữ của “truyện kiều” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ hàn lâm và dân gian, tạo nên tính biểu cảm và rõ ràng.

    Nói đến đại thi hào Nguyễn Du, chúng ta không thể không liên tưởng đến cây bút cổ tích “Truyện Kiều”. ở đó hội tụ tất cả tài năng, tấm lòng và tầm vóc của nhà thơ. những giá trị đích thực của tác phẩm vẫn bất diệt với nền văn học Việt Nam.

    kể về lịch sử người Việt Nam ở nước ngoài bằng mô hình 7

    nguyễn du từ “thấy” mà “đau lòng”, từ học hỏi tiếng nói của người làm dâu và tấm lòng nhân đạo cao cả, một tài năng lớn mà ông đã viết nên “truyện kiều”. Nhiều thế kỷ đã trôi qua, nhưng “truyện kiều” vẫn tiếp tục hấp dẫn nhiều thế hệ độc giả.

    “Kim văn kiều truyện” do Nguyên du sáng tác dựa trên cốt truyện “Kim văn kiều truyện” của một tài năng thanh tâm. Từ câu chuyện đó, Nguyễn Du đã sáng tạo ra một câu chuyện mới. “Truyện kiều” có 3254 câu thơ lục bát và được viết dưới dạng thơ lục bát.

    “Truyện Kiều” xoay quanh nhân vật chính là Thủy Kiều và bao gồm ba phần. phần tôi đang gặp gỡ và cam kết. Vào năm nhà Minh, có một người họ Vương sinh được ba người con trai. gia đình bà thuộc hàng “trung lưu”, có ba người con, trong đó Thủy kiều là chị cả, kế là Thủy văn, út là Quý ròm. Trong tiết thanh minh, ba chị em đi du xuân, hôm ấy tình cờ Thúy Kiều gặp Kim Trọng, một văn nhân tài hoa. hai người gặp nhau và sau đó thề nguyền cùng nhau.

    sự tham gia ii, đó là sự tích lũy và mất mát. Không lâu sau đó, một biến cố quan trọng của gia đình xảy ra và cô phải về quê để chịu tang người chú của mình. Về phần gia đình ở nước ngoài, cha nàng bị một tên buôn lụa lừa nên Thuý Kiều buộc phải bán mình chuộc cha. Cô bị sóng gió cuộc đời xô đẩy và rơi vào tay những kẻ buôn hương bán hoa như Tú Bà, Mã Học Sinh, Sở Khanh. nhưng sau đó, một người khách từ thị trấn là một người chú đã cứu cô khỏi chốn lầu xanh. vợ của chú ruột là một hoạn quan vì ghen tị với cô nên đã bỏ đi trú ẩn nơi cửa phật. sư phụ duyen vô tình giao cho phụ bạc, phúc hắc, cũng giống như tu ba, thanh mai trúc mã. như thể rơi trở lại mặt đất xanh. từ sợ hãi xuất hiện và cứu cô khỏi nơi bẩn thỉu đó. cô nghĩ rằng từ đây, hạnh phúc đã mỉm cười với cô… từ biển lừa, cô phải phục vụ rượu cho anh ta. thuy kiều quyết định tự tử, một lần nữa sư tỷ lại tìm được lương duyên cứu nàng.

    phần iii, là cuộc hội ngộ. Sau khi nhận tang chú, Kim Trọng trở về thì thấy Thúy Kiều đã bán mình chuộc cha và cho em gái Thúy Vân nên duyên phận. đau đớn tột cùng. Thủy kiều đã trở lại, nhưng kim trong và thủy kiều quyết định rằng “tình yêu đôi lứa cũng là cái duyên của nhóm”

    “Truyện Kiều” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nguyễn du đã vạch trần hiện thực xấu xa, tàn khốc của xã hội phong kiến ​​lúc bấy giờ. đồng thời, tấm lòng của đại thi hào cũng đồng cảm với những con người “tương thân tương ái”, nguyễn du trân trọng, ngợi ca những giá trị tốt đẹp, đồng tình với ước mơ, khát vọng của họ.

    Về giá trị nghệ thuật, nguyễn du đã kế thừa thể thơ lục bát từ văn học dân gian. đồng thời, ngôn ngữ anh sử dụng chính xác, giàu giá trị biểu cảm, có giá trị nghệ thuật cao.

    “Truyện Kiều” luôn có sức hấp dẫn đối với nhiều thế hệ độc giả. Những vấn đề Nguyễn Du nêu ra không chỉ có ý nghĩa thời đại mà còn đụng chạm đến những vấn đề vượt thời gian. vì vậy, mỗi chúng ta hãy trân trọng những kiệt tác của dân tộc, đó là viên ngọc quý không dễ gì có được, dù vài trăm năm chúng ta mới thấy nó xuất hiện một lần.

    XEM THÊM:  Triết lí nhân sinh trong Truyện Kiều

    Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Thuyết minh về truyện Kiều của Nguyễn Du [Văn lớp 9 và 10] (11 mẫu bài làm chi tiết) – Cẩm Nang Bếp Blog. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây.

    Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/

    Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem.

    Chúng tôi Xin cám ơn!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *